Bài đăng trên SaigonTimes
08/12/2022
Sự ra đời muộn màng của Uỷ
ban cạnh tranh quốc gia, tự thân nó là một chỉ báo thú vị về những tranh cãi
trong vai trò của Nhà nước và mối tương quan giữa các cơ quan quản lý trong vai
trò quản lý nhà nước đối với nền kinh tế Việt Nam.
Ngược dòng lịch sử, năm
2004, Việt Nam ban hành Luật Cạnh tranh, bên cạnh với hàng loạt các đạo luật
quan trọng khác (cũng được ban hành hoặc sửa đổi) như Luật Doanh Nghiệp, Luật Đầu
Tư, Luật Phá sản, Bộ luật Dân sự... Nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2004 – 2005,
đang bước những bước đầu tiên tiến vào kỷ nguyên kinh tế thị trường dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Nói ngắn gọn, Việt Nam thời kì ấy chưa có nhiều trải nghiệm
về kinh tế thị trường, nhưng vẫn phải ban hành Luật Cạnh tranh và các luật lệ
thị trường khác để nhằm đáp ứng cho một nhiệm vụ chính trị quan trọng là gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tôi cho đó cũng là một cách làm thú vị và
thông minh.
Trong vòng một thập kỉ sau
đó, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến nhảy vọt. Những doanh nghiệp đa
quốc gia đến Việt Nam nhiều hơn, những tranh giành trên thị trường giữa các
doanh nghiệp dẫn đầu và các doanh nghiệp nhỏ, nhu cầu tập trung sức mạnh, tạo lập
những cú đấm thép để cạnh tranh trong thế trận toàn cầu..... Luật Cạnh tranh
2004 đã không còn phù hợp với những nhu cầu về cạnh tranh trong bối cảnh mới ấy.
Luật Cạnh tranh 2018 ra đời
nhằm đáp ứng cho những kì vọng lớn lao ấy. Có quá nhiều câu hỏi cần được giải
đáp. Nổi lên trong đó là Cơ Quan Nào Sẽ Thực Thi Luật Cạnh Tranh và Địa Vị Pháp
Lý Của Cơ Quan Này được xác định như thế nào?
Nếu theo dõi quá trình lập pháp, ta thấy một điểm rất thú vị. Trong Dự thảo lần thứ nhất của Luật Cạnh tranh (2018) thì Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia (Uỷ ban) là cơ quan được giao vai trò quản lý nhà nước về cạnh tranh, bao gồm Chống hành Cạnh tranh không lành mạnh, Kiểm soát Thoả thuận hạn chế cạnh tranh, Chống độc quyền và Kiểm soát Tập trung kinh tế và nó là một Cơ quan thuộc Chính phủ. Nhưng đến Dự thảo thứ hai trở đi, Uỷ ban được xác định là trực thuộc bộ Công thương.
Cần phải nói thêm rằng, mô
hình Uỷ ban được ghi nhận trong Dự thảo thứ nhất là một mô hình, trong đó thẩm
quyền của Uỷ ban là cực lớn. Nó là một cơ quan xếp ngang hàng với các Bộ quản
lý khác và đồng thời có quyền kiểm soát hoạt động cạnh tranh của tất cả các
doanh nghiệp ở Việt Nam (kiểm soát theo chiều ngang), điều mà không có bất kì một
Bộ chủ quản nào có thể làm được (vốn chỉ kiểm soát các doanh nghiệp theo chiều
dọc, tức là chỉ trong lĩnh vực mà Bộ ấy quản lý).
Có hai điều để lý giải cho
việc này:
Một: về mặt kỹ thuật, nếu Uỷ
ban được xác định là cơ quan thuộc chính phủ thì có nghĩa phải sửa Luật Tổ chức
Chính phủ để ghi nhận Uỷ ban Cạnh tranh quốc gia. Về mặt trình tự thời gian, việc
sửa đổi này phải được tiến hành trước việc sửa đổi Luật Cạnh tranh.
Hai: đã có những cân nhắc về
việc quản lý nền kinh tế Việt Nam, về vai trò của các cơ quan chủ quản với các
doanh nghiệp nhà nước, vốn chiếm vai trò quan trọng và chi phối trong các
ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp nhà nước đó hiện hữu và mối quan hệ hỗ tương giữa
các cơ quan này với Uỷ ban Cạnh tranh quốc gia sẽ như thế nào.
Kết quả là Luật Cạnh tranh
2018 được ban hành, trong đó ghi nhận toàn bộ thẩm quyền của Uỷ ban, nhưng địa
vị pháp lý của nó chỉ là một cơ quan trực thuộc Bộ Công thương. Còn quá sớm để
đánh giá việc xác định Uỷ ban cạnh tranh trực thuộc Bộ Công thương thì sẽ ảnh
hưởng như thế nào đến việc thực thi thẩm quyền quản lý nhà nước về cạnh tranh,
nhưng như các trao đổi trong giai đoạn soạn thảo Luật Cạnh tranh 2018 đó là: một
thanh gươm sắc bén nhưng được trao cho một đứa bé với cánh tay yếu ớt.
Ở góc độ cá nhân, tôi cho
những giằng xé như trên là một tín hiệu tốt. Rõ ràng, không gian lập pháp cùng
với ý thức về quản lý nhà nước, cách thức quản lý và mục tiêu quản lý khác nhau
với những va chạm về mặt ý chí và quan điểm luôn làm cho ta khôn ra. Trong bối
cảnh cạnh tranh không chỉ gay gắt mà quan trọng hơn, quá trình toàn cầu hoá làm
cho cạnh tranh không còn trong phạm vi các doanh nghiệp trong lãnh thổ Việt Nam
mà trong nhiều trường hợp, nó đã thành cạnh tranh giữa các ngành sản xuất của
Việt Nam với các ngành sản xuất của các quốc gia khác.
Tuy vậy, tôi cho rằng quá
trình cân nhắc và lựa chọn trong giai đoạn vừa rồi là quá chậm. Bởi Luật Cạnh
tranh 2018 ra đời ngày 12/06/2018, có hiệu lực ngày 01/07/2019. Đã hơn ba năm,
nhưng Uỷ ban vẫn chưa được thành lập. Một đạo luật với những chế tài (có vẻ) cực
kì nghiêm khắc, nhưng về mặt người thực thi đạo luật ấy thì chưa tồn tại. Một
khoảng trống mà tôi cho là rất khó lí giải, nếu nhìn từ góc độ logic.
Sau Nghị định
96/2022/NĐ-CP, có lẽ đâu đó cũng cần ít nhất là nữa năm để Chính phủ có thể ban
hành nghị định thành lập Uỷ ban Cạnh tranh quốc gia, dầu muộn màng, tôi vẫn
mong Uỷ ban sẽ thực hiện tốt vai trò của mình trong việc điều tiết các nguồn lực
kinh tế Việt Nam vốn dĩ đang ở trong giai đoạn phức tạp hơn bao giờ hết.
Nhận xét
Đăng nhận xét