Hiểu và ứng dụng Bất khả kháng và Hardship vào soạn thảo hợp đồng

Trong bài viết trước, tôi đã đề cập đến chuyện sự kiện bất khả kháng. Nhưng qua các comment và trao đổi, nhiều bạn lại bị nhầm lẫn giữa Sự kiện Bất Khả Kháng và Hoàn Cảnh thay đổi căn bản (“Hardship”). Hai sự kiện này có vẻ giống nhau, trên thực tế lại rất khác nhau về căn cứ, hậu quả pháp lý và cách ứng dụng vào Hợp đồng. bài viết này giải thích cho bạn ba (03) điểm khác biệt đó.


CĂN CỨ ĐỂ XÁC ĐỊNH

Sự kiện bất khả kháng

1. Sự kiện này xảy ra một cách khách quan

2. Sự kiện không lường trước được

3. Sự kiện xảy ra mà không thể khắc phục được dù bên có nghĩa vụ đã áp dụng mọi biện pháp và khả năng cho phép (Điều 156.1 BLDS 2015)

 

Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:

1. Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng;

2. Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh;

3. Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;

4. Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;

5. Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích - (Điều 420 BLDS).


Như vậy, dựa trên qui định của Điều 156.1 và Điều 420 BLDS 2015, mặc dù cả hai loại sự kiện này đều mang tính khách quan và các bên không lường trước tại thời điểm kí hợp đồng nhưng có một đặc tính mà Toà án hoặc Trọng tài sẽ đựa vào đó để xác định một sự kiện là BKK hay Hardship. Đặc tính đó là: Các bên có thể tiếp tục thực hiện được nghĩa vụ của mình hay không.

Nếu không thể thực hiện được, dù đã làm mọi cách, thì đó là BKK.

Nếu vẫn thực hiện được, nhưng làm cho một bên bị thiệt hại, vì chi phí tăng lên gấp nhiều lần chẳng hạn, thì đó là Hardship.

Mẹo:

Hình dung một cách đơn giản khó khăn có thể xảy ra ở 3 cấp độ: Cấp độ 1 - Các khó khăn mà bạn sẽ chịu một vài tổn thất nhất định, Cấp độ 2 – Khó khăn rất lớn, bạn đã làm mọi cách rồi mà vẫn không làm sao giảm được tổn thất về mình khi tiếp tục thực hiện hợp đồng, Cấp độ 3 – Khó khăn là Vô cùng lớn, đã thử trăm phương ngàn kế rồi mà vẫn không có bất cứ phương thức nào để thực hiện các nghĩa vụ của mình. Cấp độ 1 là một rủi ro trong kinh doanh, bạn phải chịu. Cấp độ 2 là hardship, bạn có thể sẽ được thay đổi các điều kiện hoặc chấm dứt hợp đồng (nếu thoả các điều kiện sau đây). Cấp độ 3 là bạn sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường vì đã không thực hiện nghĩa vụ.

 

HẬU QUẢ PHÁP LÝ

Khi xảy ra bất khả kháng, bên có nghĩa vụ không phải bồi thường. Nhưng hậu quả của hardship lại hơi khác hơn một chút. Theo qui định tại khoản 2 và khoản 3 của Điều 420 BLDS 2015:

Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý.

Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án:

Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định;

Sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản.

Hãy nhớ rằng, nếu các bên không có thoả thuận khác thì trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.

 

Có một case rất thú vị liên quan đến Hardship xảy ra hồi tháng 5 năm 2021. Theo đó ngày 21-11-2017, CGV ký hợp đồng thuê mặt bằng tại tòa nhà trung tâm thương mại Lapen Center (TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) của Công ty Lapen, với mục đích đầu tư xây dựng và kinh doanh rạp chiếu phim. Thời hạn thuê là 20 năm. Vì xảy ra đại dịch, CGV đề nghị điều chỉnh cách tính tiền thuê từ ngày 1-12-2020 đến 28-2-2021, tiền thuê được cố định ở mức 8% doanh thu phòng vé để CGV vượt qua khó khăn hiện tại. Sau 3 tháng, các bên sẽ tiếp tục đàm phán lại về cách thức tính tiền thuê và trong trường hợp không đạt được thỏa thuận thì bất cứ bên nào cũng được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không phải chịu bồi thường hoặc khoản phạt nào, kể cả tiền cọc. Tuy nhiên, các bên không thỏa thuận được.

[Nguồn: Rạp phim vắng khách vì COVID-19, CGV kiện đòi hủy hợp đồng thuê mặt bằng, Tuoitre ngày 05.05.2021]

 

Đây là một ứng biến tuyệt khéo của CGV. Hãy nhìn vào Điều 420.3 BLDS 2015:

Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án:

a) Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định;

b) Sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản.

Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi.

CGV khi không thoả thuận được họ có hai lựa chọn: (i) yêu cầu sửa đổi hợp đồng hoặc (ii) yêu cầu chấm dứt hợp đồng. Nhưng họ lại chọn phương án khá là khắc nghiệt là yêu cầu chấm dứt. Với yêu cầu này, nó xảy ra hai khả năng:

Một là: Bên cho thuê bắt buộc phải lựa chọn phương án phản tố là yêu cầu sửa hợp đồng. Bởi nếu bên cho thuê không thực hiện điều này, thì toà sẽ xem xét yêu cầu chấm dứt. Mặc dù trên thực tế, việc chấm dứt hay không, chưa biết được, nhưng ít ra nó là yêu cầu duy nhất mà toà xử.

Hai là: Nếu chủ nhà không yêu cầu phản tố, thì Điều 420.3 BLDS 2015 cũng ràng buộc rất ngặt nghèo là “Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi”.

 

Lựa chọn một địa điểm để thuê trong vòng 20 năm, xét về mặt busines có cơ sở để tin rằng CGV đã lựa chọn thấu đáo. So với vị trí đó, chi phí đầu tư ban đầu và việc tạo lập thói quan xem phim cho người dân tại khu vực, CGV sẽ được lợi về mặt dài hạn. Cho nên, nếu giải quyết được chuyện giảm tiền nhà khi có đại dịch, sẽ hay hơn là chấm dứt hợp đồng. Cái khéo léo của CGV đó là họ đã lựa chọn phiên toà như là một cách để ép chủ nhà bước vào cuộc đàm phán giảm giá khi mà chủ nhà không có thiện chí giảm giá.

 

ỨNG DỤNG VÀO SOẠN HỢP ĐỒNG

Có vài gợi ý để bạn ứng dụng hai điều khoản này vào việc soạn các hợp đồng thương mại. Chúng tôi sẽ cập nhật trong kì sau. Nếu bạn quan tâm nhiều hơn về các kỹ thuật soạn thảo hợp đồng, hãy tham gia khoá học Soạn Thảo Hợp Đồng Thương Mại do TS. Phạm Hoài Huấn đảm trách.


Nhận xét

  1. Dạ thưa thầy em có ý kiến thế này.
    Trong vụ của CGV và Lapsen, thì nếu như Lapsen cố gắng kéo dài thời gian ra phán quyết của Tòa án (bằng bất kỳ cách nào) thì trong thời gian Tòa chưa ra phán quyết thì CGV vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình. Và khi tòa án ra phán quyết thì có lẽ dịch bệnh đã hết và khi này theo em bên thiệt chỉ có thể là CGV ạ.

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét