Bình luận Đề án thí điểm phát triển doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn

Bài đăng trên Saigon Times ngày 18.3.2021

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có tờ trình về việc Phát triển doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, đặc biệt là tập đoàn kinh tế nhà nước đa sở hữu nhằm phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng trong thời kỳ mới ("Đề án"). Theo đó, 7 doanh nghiệp nhà nước có tổng tài sản trên 20 nghìn tỷ đồng trở lên thuộc 4 lĩnh vực được đề xuất để nghiên cứu thí điểm tham gia Đề án phát triển doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn phát huy vai trò dẫn dắt, mở đường. Chúng tôi cho rằng đây là một chính sách quan trọng và việc triển khai sẽ theo đó tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam, chí ít là trong thập niên tiếp theo. Đồng thời, trên tinh thần ôn cố tri tân, để tránh những hệ luỵ nặng nề do các doanh nghiệp nhà nước yếu kém gây ra đối với nền kinh tế, mà vụ Vinashin là một ví dụ, việc lựa chọn và thí điểm này cần phải có cách tiếp cận thận trọng. Bài viết này đánh giá cách tiếp cận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư dựa trên ba (03) khía cạnh: Vai trò của Doanh nghiệp nhà nước, Kiểm soát vốn  và quản trị doanh nghiệp Nhà nước và Vấn đề bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Vai trò của doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp Nhà nước vẫn luôn đóng vai trò quan trọng. Tuy vậy theo khuyến nghị của OECD việc đầu tư của Nhà nước nên được giới hạn trong ba lĩnh vực: (i) Những lĩnh vực liên quan hoặc ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, (ii) các hoạt động mang tính công ích; và (iii) hạ tầng cơ bản phục vụ cho nền kinh tế.


Mục tiêu của Đề án là "phát triển doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, đặc biệt là tập đoàn kinh tế nhà nước đa sở hữu nhằm phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác" tôi cho đó là một mục tiêu đúng đắn. Nó cũng thể hiện tầm nhìn của chính phủ khi nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp nhà nước, khi sử dụng tiền thuế của người dân, đó là tạo nền tảng hạn tầng vững chắc để các doanh nghiệp khác vận hành trên đó. 

Tuy vậy, trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư khi lựa chọn doanh nghiệp để áp dụng thí điểm đề án này là phải trả lời cho câu hỏi: 


- nền tảng hạ tầng là gì?. Nếu chính sách của Việt Nam là ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp truyền thống, thì hạ tầng chính là năng lượng, là giao thông đường bộ, cảng biển...Nhưng nếu coi cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số là ưu tiên thì hạ tầng nó phải được nhìn nhận ở vai trò của hạ tầng mạng, viễn thông...mới chính là thứ cần phải đầu tư. 


- nguồn lực quốc gia, luôn là hữu hạn. Điều này làm phát sinh vấn đề là xác lập thứ tự ưu tiên đối với các lĩnh vực mà nhà nước cần ưu tiên. Ví dụ, trong tương quan so sánh thì viễn thông so với năng lượng cái nào sẽ được ưu tiên hơn và tỉ trọng của mỗi doanh nghiệp nhà nước trong Đề án này sẽ xác định dựa trên cơ sở nào?


Với những quan ngại đó, tôi cho rằng cách tiếp cận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là chưa hợp lý và thiếu độ cẩn trọng cần thiết. Tôi vẫn chưa thấy được logic của việc chọn 7 doanh nghiệp để tham gia thí Điểm trong đề án. Nếu chỉ đơn giản các doanh nghiệp này được chọn chỉ vì đó là các doanh nghiệp lớn (doanh thu) và tỉ suất lợi nhuận cao, thì nó chưa đáp ứng yêu cầu mà Chính phủ giao cho Bộ khi nhấn mạnh đến " vai trò mở đường, dẫn dắt cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng trong thời kỳ mới ".

 

Kiểm soát vốn  và quản trị doanh nghiệp Nhà nước

Trong hoạt động đầu tư và dành các ưu đãi cho doanh nghiệp nhà nước thì việc kiểm soát vốn  và quản trị doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò trung tâm. Nếu như các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân luôn có động lực mạnh mẽ trong việc kiểm soát quản trị do đặc thù về sở hữu thì cũng chính vấn đề sở hữu, việc kiểm soát quản trị tại doanh nghiệp nhà nước nếu không có cách tiếp cận phù hợp, sẽ dễ gây ra những hệ luỵ khôn lường. Cụ thể, vấn đề sở hữu và quản lý trong doanh nghiệp nhà nước là tách rời nhau. Những người đại diện vốn và/hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước, xét về mặt lý thuyết vị thế của họ là khác hoàn toàn với các cổ đông và/hoặc người quản lý tại các doanh nghiệp tư nhân. Thiếu vắng sức ép từ chủ sở hữu và cơ chế khuyến khích bằng lợi ích, lựa chọn an toàn sẽ là lựa chọn hữu hiệu khi người người đại diện vốn và quản lý doanh nghiệp nhà nước khi đứng trước những yêu cầu của thị trường.


Từ Luật Doanh nghiệp 2014 đến Luật Doanh nghiệp 2020 có một sự thay đổi thú vị đối với khái niệm doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, để gọi là DNNN, theo LDN 2014 nhà nước phải sở hữu 100% vốn thì đến LDN 2020 tỉ lệ này chỉ còn là 51%. Chính điều này sẽ góp phần đặt ra câu hỏi: Doanh nghiệp nhà nước mà chúng ta đang muốn đầu tư và dành các ưu đãi có bao gồm các doanh nghiệp đã cổ phần hoá và/hoặc các doanh nghiệp được sở hữu một bởi các nhà đầu tư tư nhân? Nếu trong trường hợp câu trả lời là có bao gồm các doanh nghiệp mà nhà nước chỉ sở hữu 51% vốn, chúng ta đang chuyển một phần [rất lớn] tiền thuế từ nhân dân Việt Nam vào tay khu vực tư nhân. Và nếu nhìn từ khía cạnh này thì hệ hệ luỵ của nó quả thật là rất đau đớn.


Cho nên, một mặt chúng ta cổ xuý việc đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước để các doanh nghiệp này trở thành những lực lượng dẫn dắt nền kinh tế, tạo nền tảng cho các doanh nghiệp tư nhân được vùng vẫy trên nền tảng ấy, thì mặt khác ta phải chú trọng đế việc kiểm soát dòng vốn, cách vận hành doanh nghiệp. Chính vì lẽ đó, từ quan sát về kiểm soát quản trị đối với DNNN trong quá khứ, với một thái độ dè dặt tôi cho có ba điều sau đây cần nên cân nhắc:

Một là cần phải có một cái nhìn nghiêm túc về Quản trị doanh nghiệp nhà nước, chí ít là từ góc độ: cơ quan quản lý vốn nhà nước, người đại diện và vấn đề kiểm soát như thế nào. Bộ nguyên tắc về Quản trị doanh nghiệp của OECD cũng là một tham khảo thú vị. Nhưng điều quan trọng là tuỳ biến những nguyên tắc này vào trong bối cảnh đặc thù về sở hữu và quản trị trong DNNN.

Hai là việc quản trị phải đặt trong mối liên hệ với pháp luật về phòng chống tham nhũng.


Ba là xây dựng một đội ngũ những công chức và người quản lý liêm chính và đề cao tinh thần dân tộc. Nếu người lý tại các doanh nghiệp tư nhân mang trong mình những tham vọng về lợi ích thì sự khác biệt ở những người đại diện vốn và quản lý tại DNNN là cái tinh thần vì một Việt Nam hùng cường, là cái liêm sỉ trước sự phán xét của các doanh nghiệp khác và con cháu đời sai vì đã được nhà nước tin tưởng giao phó cho việc quản lý tiền thuế của người dân.

 

Vấn đề bình đẳng giữa các thành phần kinh tế

Vấn đề bình đẳng giữa các thành phần kinh tế là một trong những yêu cầu quan trọng của kinh tế thị trường. Bản chất của các ưu đãi luôn tạo ra sự bất bình đẳng cho dù nó xuất phát từ mục tiêu dài hạn tốt đẹp nhằm mở đường, dẫn dắt cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Có hai (02) câu hỏi được đặt ra là trong tình huống này:


Một là: các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân sẽ cạnh tranh như thế nào với các doanh nghiệp được lựa chọn vào Đề án?

Hai là: ngay cả khi Đề án bắt đầu phát huy tác dụng thì các doanh nghiệp trong nền kinh tế (bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) sẽ được tiếp cận các nguồn lực này một cách công bằng hay không?


Khi Việt Nam gia nhập vào các Hiệp định thương mại song và đa phương ngày càng nhiều, thì vấn đề bình đẳng giữa DNNN và doanh nghiệp tư nhân càng bị siết chặt. Việc không lưu ý khía cạnh này sẽ khiến cho Việt Nam sẽ đối diện với những vấn đề pháp lý mà Việt Nam đã cam kết. 

Nhận xét