“Buôn có bạn, bán có phường”.
Các sản phẩm tiêu dùng Thái Lan mặc dù được yêu thích và xuất hiện ngày càng nhiều ở Việt Nam không
có nghĩa nó sẽ mặc nhiên được lan tỏa. Cho nên, việc tập hợp thành một quần thể
và tiến hành cuộc xâm chiếm thị trường [Việt Nam] thông qua một hệ thống bán lẻ
đã được cài cắm trước đó [Big C] là câu chuyện về chiến lược phát triển ngành,
không nên bó hẹp ở góc độ của một doanh nghiệp đơn lẻ là Big C.
Một minh chứng gần
là câu chuyện của Samsung, khi sang Việt Nam, họ kéo theo đó là hàng trăm
vendor. Mối quan hệ giữa Samsung và các vendor Hàn Quốc là mối quan hệ cộng
sinh. Tuy nhiên, nếu có điều cần nói chính là sự KHÔN KHÉO khi Samsung đánh bật
các nhà cung cấp Việt Nam bằng cách đưa ra mức giá quá thấp và yêu cầu về tiêu
chuẩn cao, để khẳng định “Việt Nam không cung cấp nổi con ốc cho các điện thoại
Samsung”.
“Muốn đi nhanh
thì đi một mình, muốn đi xa thì đi cùng người khác” được rao giảng nhiều ở các
khóa Quản trị doanh nghiệp, nhưng nó cũng là thứ cần phải được các policy maker
thuộc nằm lòng. Bản chất của hội nhập và FTA là như vậy. Khi mà các rào cản
thương mại được dỡ bỏ, thì cuộc chiến “xáp lá cà” chiếm lĩnh thị trường được tiến
hành ào ạt. Quan sát các cuộc chinh đoạt thị trường như vậy, có ba điều được
rút ra:
Liên kết doanh nghiệp hoặc thậm chí là ngành sản xuất
Định hướng của Nhà nước
Các chính sách hỗ trợ
Big C là một
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ. Lợi nhuận theo đó đến từ hoạt động
bán hàng. Một doanh nghiệp bán lẻ không có động cơ để từ chối khách hàng, đặc
biệt là từ chối cả một NGÀNH MAY MẶC của thị trường mà họ đang hiện diện thương
mại.
Có điều
gì cần thấy ở vụ Big C từ chối cung cấp sản phẩm của Việt Nam?
Người Thái đã
mua Big C một cách hợp pháp. Với tư cách là chủ doanh nghiệp, người Thái có quyền
quyết định chiến lược phát triển thông quan việc bán sản phẩm nào. Ngay cả khi
người Thái quyết định dừng việc kinh doanh các sản phẩm may mặc của Việt Nam,
thì quyết định đó cũng cần phải nhìn nhận là một hành vi bình thường trong hoạt
động kinh doanh. Cộng đồng doanh nghiệp có quyền phản đối, thậm chí tẩy chay
Big C vì đó là quyền của doanh nghiệp và/hoặc người dùng nhưng NHÀ NƯỚC thì
không có quyền đưa ra các phát ngôn và/hoặc những hành động bất lợi cho Big C
trước khi có những bằng chứng xác đáng hơn. Điều tiết và/hoặc trừng phạt Big C
(nếu có) phải dựa trên các qui định của pháp luật, mà trước hết là Luật Cạnh
tranh đối với hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường [Big C].
Bất kì một sự cổ xúy mang tính cảm tính từ Nhà nước, đầu có thể mang đến những
suy luận méo mó về một nền kinh tế thị trường tại Việt Nam.
Quản lý Nhà nước
về kinh tế trong nền kinh tế thị trường mặc dù được định hướng bởi chính sách
và chiến lược phát triển nhưng khi đi vào cuộc sống, nó phải được thể hiện
thành những câu chữ của pháp luật. Nhà hoạch định chính sách không “diễn dịch”
được thành câu chữ trong các văn bản pháp lý tương ứng, để cho các doanh nghiệp
chân chính bị chèn ép, thì đó là sự yếu kém về mặt xây dựng pháp luật. Và cũng
như bất kì sự yếu kém nào khác, sự yếu kém về hoạch định chính sách cạnh tranh
quốc gia và xây dựng pháp luật đều phải trả “học phí” bằng những tổn thất tương
ứng.
Hội nhập kinh tế
khu vực và/hoặc thế giới đòi hỏi sự khôn ngoan về chiến lược. Trong bối cảnh một
nền kinh tế với năng lực còn những điểm hạn chế nhất định, để có thể cạnh tranh
được và tồn tại trước các đối thủ lớn mạnh hơn, vai trò của chiến lược càng quan
trọng.
Kết lại cho vụ
Big C, có hai điều mà cơ quan Nhà nước nên cân nhắc:
Nhà nước nên xem cách làm của người Thái là một bài học kinh nghiệm thú vị
mà Việt Nam cần tham khảo trong các chiến lược phát triển ngành. Báo cáo của
Ngân hàng Thế giới chỉ ra, với tuyệt đại đa số doanh nghiệp là nhỏ và siêu nhỏ,
cơ hội nào cho các doanh nghiệp này vươn ra thị trường khu vực và/hoặc thế giới
nếu thiếu sự hậu thuẫn bởi Định hướng, Chính sách hỗ trợ của Nhà nước và
được dẫn đầu bởi một Nhà quán quân của ngành sản xuất?
Tất cả các tranh chấp xuất phát từ hoặc liên quan đến vụ việc này phải được
giải quyết bởi và chỉ duy nhất bằng pháp luật. Những phát ngôn hoặc hành xử dựa
trên cảm tính của khu vực công quyền đều có thể đưa Việt Nam vào những rủi ro
pháp lý trước các vụ kiện liên quan giữa Nhà nước và Nhà đầu tư nước ngoài. Chả
phải tình cờ mà các Hiệp định về tự do thương mại quốc gia và/hoặc khu vực đều
có những điều khoản về giải quyết tranh chấp kiểu này.
Nhận xét
Đăng nhận xét