Cơ bản về Quản trị Công ty - phần 1

NHIỆM KÌ CỦA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ

Kể từ Luật Doanh nghiệp 2014, LDN đã không còn qui định nhiệm kì của Hội đồng quản trị mà chỉ qui định nhiệm kì của thành viên HĐQT. Điều này ảnh hưởng thế nào đến quyền của cổ đông?

Bài này phân tích bản chất của sự thay đổi ấy và tác động của nó đối với quản trị.


Một tranh chấp về quản trị nội bộ trong một ty lớn tại Việt Nam đã làm nảy sinh ra vấn đề trên. Trong nội bộ công ty lại chia thành hai nhóm cổ đông đối trọng với nhau lần lượt là cổ đông A sở hữu 43%  và B sở hữu 40% cổ phần phổ thông. Vấn đề là trong việc bầu ra Hội đồng quản trị, mỗi lần tiến hành công ty này chỉ  bầu 1/3 số thành viên. Do đó, việc thay thế các thành viên HĐQT (trong trường hợp bình thường, thành viên không bị bãi nhiệm hoặc từ chức đột xuất) khi thành viên hết nhiệm kì 5 năm của mình theo qui định trong luật doanh nghiệp. Cũng vì thế mà cổ đông A cho rằng Hội đồng quản trị của công ty này không có nhiệm kì, là không phù hợp với qui định của pháp luật doanh nghiệp hiện hành. Vấn đề có phải vậy không?


Điều 109 Luật Doanh nghiệp 2005 qui định: “Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị là 05 năm. Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản trị không quá 05 năm”. Nói một cách hình tượng, Hội đồng quản trị như một cỗ máy còn các thành viên HĐQT là các chi tiết của cỗ máy đó. Theo đó, cỗ máy  luôn có niên hạn sử dụng, giả sử là 10 năm. Với tính cách là các bộ phận của cỗ máy, các chi tiết máy cũng phải có niên hạn theo niên hạn này. Tuy vậy, trong quá trình máy hoạt động có thể có một vài hỏng hóc. Nói cách khác  là có một hoặc vài chi tiết máy bị hư. Cách xử lí trong trường hợp này rất đơn giản, chỉ cần thay thế các chi tiết máy hỏng, thế là xong. Như vậy, mặc dù cỗ máy thì có niên hạn sử dụng là 10 năm, nhưng các chi tiết máy thì có thể chỉ sử dụng được tối đa là 10 năm, nhưng cũng có thể ngắn hơn. Khi cỗ máy hết niên hạn sử dụng, các chi tiết máy này tự thân  nó không thể hoạt động độc lập nên nguyên lí chung là người ta cũng sẽ bỏ đi cùng với cái máy đã hết niên hạn sử dụng. Trong trường hợp có một chi tiết máy nào đó còn mới vì nó mới được thay gần đây, người chủ cảm thấy tiếc rẻ khi phải bó chi tiết này cùng với cái máy cũ, họ có thể giữ lại. Nhưng điều quan trọng là chi tiết này phải được gắn vào trong một cỗ máy khác để hoạt động đồng bộ cùng các chi tiết trong cỗ máy mới.


Câu chuyện về tương quan giữa thành viên HĐQT và HĐQT cũng tương tự như giữa cỗ máy và các chi tiết máy mà chúng ta vừa phân tích ở trên. HĐQT là cỗ máy, còn thành viên HĐQT là các chi tiết máy. Bởi thế luật DN mới qui định “Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị là năm năm. Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản trị không quá năm năm”. Cũng như cỗ máy là trong quá trình hoạt động, công ty vẫn có thể nâng cấp cỗ máy HĐQT bằng việc thay thế một hoặc vài chi tiết thành viên. Nguyên lí nâng cấp cỗ máy HĐQT được luật DN diễn đạt là “Trường hợp có thành viên được bầu bổ sung hoặc thay thế thành viên bị miễn nhiệm, bãi nhiệm trong thời hạn nhiệm kỳ thì nhiệm kỳ của thành viên đó là thời hạn còn lại của nhiệm kỳ Hội đồng quản trị”.


Như vậy, trở lại tình huống được đề cập ở đầu bài việc công ty chỉ bầu 1/3 thành viên HĐQT cho mỗi lần và chỉ thay thế thành viên HĐQT khi thành hết nhiệm kì 5 năm là sai. Vì cách làm này đã vô tình làm cho cỗ máy HĐQT không còn niên hạn sử dụng là 5 năm theo qui định của luật doanh nghiệp.


Nhìn từ góc độ của cổ đông A, với việc nắm giữ 43% cổ phần phổ thông, cổ đông này đang nắm một lợi thế lớn trong việc đề cử và bầu cử thành viên HĐQT của công ty. Theo đó, cổ đông  có quyền đề cử tối đa là 4 người trong cuộc bầu cử HĐQT. Nếu như A tìm được sử đồng thuận từ nhóm cổ đông nhỏ còn lại cơ hội để A kiểm soát HĐQT công ty là rất lớn. Tuy vậy, với cách thức bầu cử được áp dụng theo tỉ lệ 1/3 thành viên cho mỗi lần như được đề cập ở tình huống này khả năng này của A đã bị hạn chế rất nhiều.


Trong bối cảnh A là một cổ đông ngoại có tiềm lực tài chính lớn, có nhiều nghi vấn liên quan đến chuyện A đang thực hiện chiến lược thôn tính công ty. Khi muốn vươn lên một vị trí/ qui mô lớn hơn con đường đại chúng hóa là còn đường tất yếu. Do vậy, một khi nhà đầu tư đã chấp nhận đầu tư vào công ty theo đúng qui định của pháp luật thì họ có quyền kiểm soát các khoản đầu tư của mình thông qua việc quyết định tại đại hội đồng cổ đông, đề cử và bầu người vào HĐQT. Đây cũng là câu chuyện bình thường nhìn từ góc độ quản trị công ty. Nếu cần bàn về việc “tự vệ” của các doanh nghiệp nội trước các làn sóng thôn tính của các đối thủ ngoại, nó thuộc về chiến lược kinh doanh mà không liên quan đến luật lệ về quản trị.


Cập nhật luật doanh nghiệp 2020

Có một sự thay đổi mang tính cơ bản trong LDN 2005 và LDN 2020. Nếu như trong LDN 2005 qui định HĐQT có nhiệm kì thì trong LDN 2020 không qui định nhiệm kì của HĐQT mà chỉ qui định nhiệm kì của các thành viên HĐQT. Cụ thể: Điều 154 LDN 2020 qui định:

.....

2. Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản trị không quá 05 năm và có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Một cá nhân chỉ được bầu làm thành viên độc lập Hội đồng quản trị của một công ty không quá 02 nhiệm kỳ liên tục.

3. Trường hợp tất cả thành viên Hội đồng quản trị cùng kết thúc nhiệm kỳ thì các thành viên đó tiếp tục là thành viên Hội đồng quản trị cho đến khi có thành viên mới được bầu thay thế và tiếp quản công việc, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.


Việc  loại  bỏ  nhiệm  kỳ  của  Hội  đồng  quản  trị  theo  Luật doanh nghiệp năm 2020 ảnh hưởng một cách rất căn bản đối với phương thức bầu dồn phiếu. Theo đó, bằng việc loại bỏ nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị, các cổ đông lớn của công ty có thể loại bỏ những lợi ích mà phương thức bầu dồn phiếu này mang lại đối với cổ đông nhỏ bằng cách chia việc bầu thành viên Hội đồng quản trị thành nhiều lần. Quay trở lại ví dụ bầu thành viên Hội đồng quản trị ở bài Bầu dồn phiếu: tỷ lệ bao nhiêu thì đủ . Giả sử các bên chia việc bầu 5 thành viên Hội đồng quản trị thành hai đợt:

Đợt 1 bầu 3 thành viên

Đợt 2 bầu 2 thành viên.


Vẫn dựa trên nguyên lý bầu dồn phiếu là mỗi cổ đông có tổng số phiếu biểu quyết tương ứng với tổng số cổ phần sở hữu nhân với số thành viên được bầu của Hội đồng quản trị.

Kết quả của đợt 1 là:


Bản chất của bầu dồn phiếu nằm ở khả năng dồn các phiếu bầu. Nhưng bằng việc chia thành nhiều đợt bầu thành viên, việc dồn phiếu này mất đi tính hiệu quả. Nhìn vào kết quả của đợt 1, dù cho cổ đông thứ 3 có dồn như thế nào, nhưng vì chỉ dồn được quá ít, nên ứng cử viên D do họ đề cử vẫn chỉ được tỷ lệ là 33.


Cách làm cũng được tiến hành tương tự cho đợt 2.

Như vậy, rõ ràng với sự thay đổi này, các cổ đông lớn có thể chia nhỏ việc bầu thành viên Hội đồng quản trị, qua đó loại bỏ lợi ích của phương thức bầu dồn phiếu trong việc bảo vệ cổ đông thiểu số.

Bài này được trích từ cuốn DOANH NHÂN & KIỂM SOÁT QUẢN TRỊ của TS. Phạm Hoài Huấn

Nhận xét